Võ Nguyên Giáp – huyền thoại dân tộc của Nhân dân Việt Nam

Võ Nguyên Giáp là một tướng lĩnh trong Quân đội Nhân dân Việt Nam; một chính trị gia và được mệnh danh là một trong những chiến lược quân sự vĩ đại nhất thế kỷ 20. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp nổi tiếng lần đầu tiên trong Thế chiến thứ hai. Nơi ông từng là nhà lãnh đạo quân sự của Việt Minh kháng chiến chống Nhật Bản. Đồng thời là Bộ trưởng Quốc phòng & Phó Thủ tướng Chính phủ trong gần 44 năm

Ông là chỉ huy quân sự quan trọng trong hai cuộc chiến tranh: Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954 và Chiến tranh Việt Nam 1955–1975. Tham gia một số trận đánh có ý nghĩa lịch sử: Cao Bằng năm 1950, Hòa Bình năm 1951–1952, Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh cuối cùng năm 1975.

Tiểu sử của đại tướng Võ Nguyên Giáp

Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại tỉnh Quảng Bình, Đông Dương thuộc Pháp.  Cha và mẹ của Giáp là Võ Quang Nghiêm và Nguyễn Thị Kiên. Họ chủ yếu làm nông, cho hàng xóm thuê ruộng để cày cấy và có một cuộc sống tương đối thoải mái.

Cha của ông vừa là một quan chức nhỏ, và là một nhà yêu nước. Đã tham gia vào phong trào Cần Vương vào những năm 1880. Ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt vào năm 1919 và chết trong tù vài tuần sau đó. Võ Nguyên Giáp có hai chị gái và một anh trai, ngay sau khi cha bị bắt giam, một người chị của ông cũng bị bắt. Mặc dù cô ấy bị giam giữ không lâu; sự khắc nghiệt của cuộc sống trong tù đã khiến cô ấy bị ốm và chết vài tuần sau khi được thả.

Giáp được cha dạy ở nhà trước khi đi học trường làng. Sự thông minh nhanh nhạy đã giúp ông sớm được chuyển đến trường huyện. Ở tuổi mười ba, ông rời nhà để đến học tại Quốc Học (Còn được gọi bằng tiếng Anh là “National Academy”). Một trường học do Pháp điều hành tại Huế. Trường này do một quan chức Công giáo tên là Ngô Đình Khả thành lập. Và con trai của ông, Ngô Đình Diệm cũng theo học. Diệm sau đó trở thành Tổng thống miền Nam Việt Nam (1955–63). Nhiều năm trước, chính ngôi trường này đã dạy dỗ một cậu bé khác là Nguyễn Sinh Cung; cũng là con của một quan chức. Năm 1943 Cung lấy tên là Hồ Chí Minh.

Bị đuổi khỏi trường

Năm 14 tuổi, Giáp trở thành người đưa tin cho Công ty Điện lực Hải Phòng. Ông bị đuổi khỏi trường sau hai năm vì tham gia biểu tình, và về quê sống một thời gian. Trong thời gian ở đó, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Một nhóm hoạt động ngầm được thành lập năm 1924, và cũng chính  tổ chức này này đã đưa ông đến với Đảng Cộng sản.

Ông trở lại Huế và tiếp tục hoạt động chính trị. Ông bị bắt năm 1930 vì tham gia các cuộc biểu tình của sinh viên và bị kết án 2 năm tại nhà tù Lao Bảo. Tại đây ông phải lao động vô cùng khổ sai ở đó trong 13 tháng. Võ Nguyên Giáp được thả do thiếu bằng chứng chống lại ông.  Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1931 và tham gia một số cuộc biểu tình chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương; cũng như hỗ trợ thành lập Mặt trận Dân chủ năm 1933.

Mặc dù tướng Giáp đã phủ nhận nhưng sử gia Cecil B. Currey cho biết ông cũng đã từng công tác một thời gian tại học viện Lycée Albert Sarraut Hà Nội danh tiếng. Nơi đào tạo giới tinh hoa địa phương để phục vụ chế độ thực dân. Ông được cho là học cùng lớp với Phạm Văn Đồng; vị Thủ tướng tương lai, người cũng phủ nhận việc từng học ở Albert Sarraut và hoàng đế Bảo Đại. Từ năm 1933 đến năm 1938, ông học tại Đại học Đông Dương tại Hà Nội và có được tấm bằng cử nhân luật chuyên ngành kinh tế chính trị.

Sự nghiệp chính trị của tướng Võ Nguyên Giáp

Các hoạt động chính trị bận rộn của Giáp đã ảnh hưởng đến việc học sau đại học của ông. Vì vậy ông đã không vượt qua kỳ thi lấy Chứng chỉ Luật hành chính. Do đó, không thể hành nghề luật sư; ông đã nhận công việc là giáo viên dạy lịch sử tại Trường Thăng Long, Hà Nội.

Vừa dạy học ở trường, ông Giáp vừa miệt mài viết báo Tiếng Dân do Huỳnh Thúc Kháng sáng lập và nhiều tờ báo cách mạng khác. Đồng thời tích cực tham gia các phong trào cách mạng. Trong suốt thời gian đó, Giáp là một người chuyên đọc lịch sử và triết học quân sự; ông tôn sùng Tôn Tử.

Ông cũng đã thực hiện một nghiên cứu cụ thể về quyền tướng của Napoleon; và rất ngưỡng mộ Bảy Trụ cột Thông thái của T. E. Lawrence. Từ đó học hỏi những ví dụ thực tế về cách áp dụng lực lượng quân sự tối thiểu để đạt hiệu quả tối đa. Trong những năm Mặt trận Bình dân ở Pháp, ông thành lập Hồn Trẻ tập mới; một tờ báo xã hội chủ nghĩa ngầm. Ông cũng thành lập tờ báo tiếng Pháp Le Travail (trên đó Phạm Văn Đồng cũng làm việc).

Hoạt động chính trị của tướng Giáp

Sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, chính quyền Pháp đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật. Các nhà lãnh đạo quyết định rằng ông nên rời Việt Nam và đi lưu vong ở Trung Quốc. Ngày 3 tháng 5 năm 1940, ông từ biệt vợ, rời Hà Nội và vượt biên sang Trung Quốc. Vợ của Giáp về quê ở Vinh và bị bắt, bị kết án mười lăm năm tù và bị giam tại Nhà tù Trung tâm Hỏa Lò, Hà Nội. Tại Trung Quốc, ông kết giao với Chủ tịch Hồ Chí Minh; khi đó là cố vấn của Quân Giải phóng Nhân dân. Ông lấy bí danh là Dương Hoài Nam, học nói và viết tiếng Trung Quốc. Đồng thời nghiên cứu chiến lược và chiến thuật của Đảng Cộng sản Trung Quốc. 

Tháng 9 năm 1940, thực dân Pháp đồng ý để Nhật Bản chiếm đóng Việt Nam; để ‘bảo hộ’ Đông Dương. Tháng 5 năm 1941, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Việt Minh. Võ Nguyên Giáp được giao trách nhiệm thiết lập mạng lưới tình báo và tổ chức các cơ sở chính trị ở miền Bắc. Để bắt đầu công tác tuyên truyền trong dân chúng, tờ báo Việt Nam Độc Lập đã ra đời. Ông Giáp đã viết nhiều bài cho tờ báo này.

Sự nghiệp cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Những năm đầu của cuộc cuộc kháng chiến; chủ yếu là các chiến dịch tranh quy mô tầm trung chống lại quân Pháp chiếm đóng. Cũng như những cuộc tiến công của kẻ địch lên căn cứ địa Việt Bắc như Thu – Đông (1947), Biên giới Thu – Đông ( 1950 ),… Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên được có cơ hội để chỉ huy trận chiến đấu thực sự tại Nha Trang. Khi ông đến Nam Trung Bộ vào tháng 1 đến tháng 2 năm 1946; để truyền đạt quyết tâm kháng Pháp của các lãnh đạo ở Hà Nội. 

Kháng chiến chống Pháp

Việt Nam phá hủy các đồn bốt của Pháp ở đó; cuộc xung đột đã biến thành một cuộc chiến tranh quy ước giữa hai quân đội được trang bị vũ khí hiện đại do Hoa Kỳ và Liên Xô cung cấp.

Khi biết rằng quân đội đang dần sa lầy vào cuộc chiến và không mấy thành công cho đến nay. Chính phủ Pháp đã cố gắng thương lượng một thỏa thuận với Việt Minh. Họ đề nghị giúp ta thành lập một chính phủ quốc gia và hứa rằng họ sẽ trao độc lập cho Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo khác của Việt Minh; dĩ nhiên không tin tưởng vào lời hứa của người Pháp và tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến.

Tháng 12 năm 1953, Tổng tư lệnh quân đội Pháp Henri Navarre thiết lập một căn cứ địa tại Điện Biên Phủ trong thung lũng Mường Thanh. Phá vỡ các tuyến tiếp tế của Việt Minh đi qua Lào. Ông ta phỏng đoán rằng trong một nỗ lực mở thông tuyến đường; Giáp sẽ buộc phải tổ chức một cuộc tấn công ồ ạt vào Điện Biên Phủ. Do đó sẽ đánh một trận đánh sòng phẳng, trong đó Navarre có thể có lợi thế.

Thách thức lớn của tướng Giáp

Ông Giáp nhận lời thách thức của người Pháp. Trong khi quân Pháp đào tiền đồn của họ, Việt Minh cũng đang chuẩn bị chiến trường. Trong khi các cuộc tấn công nghi binh được triển khai ở các khu vực khác. Giáp ra lệnh cho người của mình bí mật bố trí pháo binh bằng cách kéo pháo vào trận địa; ông đã bố trí 24 khẩu pháo 105mm trên sườn phía trước của những ngọn đồi xung quanh Điện Biên Phủ. Trong các ụ sâu chủ yếu được đào bằng tay; nhằm tránh khỏi máy bay Pháp và hỏa lực của pháo hạng nặng của người Pháp.

Với súng phòng không do Liên Xô cung cấp; quận đội của tướng Giáp đã có thể hạn chế một cách hiệu quả khả năng tiếp tế của quân Pháp cho các đồn trú của họ. Buộc họ phải thả tiếp tế bằng dù từ trên cao; mà sau đó phần lớn tiếp tế rơi vào tay quân Việt Minh. Ông ra lệnh cho người của mình đào hệ thống hào bao vây quân Pháp. Từ đường hào phía ngoài, hầm khác dần dần được đào sâu vào phía trong về phía trung tâm. Việt Minh lúc này đã có thể tiến sát quân Pháp đang bảo vệ Điện Biên Phủ.

Chiến thắng vang dội

Ngày 13 tháng 3 năm 1954, Giáp mở cuộc tấn công. Trong 54 ngày, Việt Minh giành hết vị trí này đến vị trí khác; đẩy lùi quân Pháp cho đến khi họ chỉ chiếm được một khu vực nhỏ của Điện Biên Phủ. Đại tá Piroth, chỉ huy pháo binh, đã tự trách mình về việc phá hủy ưu thế pháo binh của Pháp.

Anh ta nói với các sĩ quan đồng nghiệp của mình rằng anh ta đã “hoàn toàn bị sỉ nhục” và tự sát bằng lựu đạn. Tướng De Castries, Tư lệnh Pháp ở Điện Biên Phủ, bị bắt sống trong boongke của mình. Quân Pháp đầu hàng vào ngày 7 tháng 5; tổng số thương vong của họ là hơn 2.200 người chết; 5.600 người bị thương và 11.721 người bị bắt làm tù binh. Ngày hôm sau chính phủ Pháp tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam.

Chiến thắng của Đại tướng Giáp trước quân Pháp là nguồn cảm hứng quan trọng cho các nhà vận động chống thực dân trên toàn thế giới. Đặc biệt là ở các thuộc địa của Pháp, và hơn hết là Bắc Phi. Chiến thắng Điện Biên Phủ đánh dấu sự khởi đầu kỷ nguyên mới trong cuộc đấu tranh quân sự chống thực dân; giành độc lập dân tộc cho Morocco, Algeria, Tunisia và các nước bị đô hộ khác.

Kháng chiến chống Mỹ

Ông Giáp giữ chức Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trong suốt cuộc chiến chống lại miền Nam Việt Nam; với các đồng minh của Hoa Kỳ, Úc, Thái Lan, Hàn Quốc và Philippines. Ông đã chứng kiến sự phát triển của QĐNDVN từ một lực lượng quy mô nhỏ thành một quân đội chính quy. Được các đồng minh cộng sản trang bị một lượng đáng kể vũ khí tương đối hiện đại; mặc dù điều này thường không sánh được với vũ khí trang bị của người Mỹ.

Tướng Giáp thường được cho là người lập kế hoạch cho cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Nhưng điều này dường như không phải như vậy; bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy ông không thích kế hoạch này. Rõ ràng nhất là khi Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng sẽ tiến hành nó, ông đã rời Việt Nam để chữa bệnh ở Hungary. Và trở lại khi cuộc tấn công bắt đầu.

Mặc dù một cuộc tổng nổi dậy chống lại chính quyền miền Nam đã không xảy ra theo kế hoạch. Nhưng đây là một thắng lợi chính trị quan trọng nhờ thuyết phục được các chính trị gia và công chúng Mỹ rằng; cam kết của họ đối với miền Nam Việt Nam không thể được kết thúc một cách công khai. Sau đó, Tướng Giáp cho rằng cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân không phải là một “chiến dịch quân sự thuần túy”; mà là một phần của “chiến lược tổng hợp về cả quân sự, chính trị và ngoại giao.” 

Đàm phán hoà bình

Các cuộc đàm phán hòa bình giữa các đại diện của Hoa Kỳ; Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam, và MTDTGPMNVN bắt đầu tại Paris vào tháng 1 năm 1969. Tổng thống Richard Nixon, cũng như Tổng thống Lyndon B. Johnson trước ông, tin rằng Mỹ rút quân là cần thiết, họ cần đến 4 năm để hoàn thành điều đó.

Trong một nỗ lực nhằm gây áp lực lên cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam trong các cuộc đàm phán. Tổng thống Nixon đã ra lệnh cho một loạt các cuộc không kích vào Hà Nội và Hải Phòng; với mật danh Chiến dịch Linebacker II. Cuộc chiến kết thúc vào ngày 27 tháng 1 năm 1973; sau 12 ngày với thương vong và tàn phá nặng nề. Sau đó, cả Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam đã đồng ý ký Hiệp định Hòa bình Paris đã được đề xuất vào tháng 10. Miền Nam Việt Nam phản đối, nhưng chỉ còn cách chấp nhận. Rõ ràng, lợi thế đã thuộc về Hà Nội.

Cuộc chiến kết thúc

Các binh sĩ cuối cùng của Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1973. Bất chấp hiệp ước, những cuộc đụng độ giữa 2 phe vẫn diễn ra. Những nỗ lực của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà; để giành lại lãnh thổ do Quân Giải Phóng kiểm soát đã khiến ta phải thay đổi chiến lược. Các nhà lãnh đạo cộng sản đã tiến hành một loạt các cuộc họp tại Hà Nội vào tháng 3; để lên kế hoạch cho một cuộc tấn công lớn vào miền Nam. Vào tháng 6 năm 1973, Quốc hội Hoa Kỳ cấm bất kỳ sự can dự nào của quân đội vào chiến trường Việt Nam.

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đi đến hồi kết với 55 ngày hành quân thần tốc của QĐNDVN. Với những chiến dịch Tây Nguyên, Nha Trang, Đà Nẵng,… Nổ ra liên tiếp đã đẩy lùi ngụy quân về Sài Gòn. Sau đó 21 năm chống Mỹ – Ngụy đã kết thúc với chiến dịch Hồ Chí Minh; giáng đòn quyết định vào chính quyền thủ tướng Dương Văn Minh. Đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hoà và thống nhất đất nước

Cuộc đời sau kháng chiến của đại tướng Võ Nguyên Giáp

Ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập. Trong chính phủ mới, ông Giáp giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; và được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng vào tháng 7 năm 1976. Tháng 12 năm 1978, ông giám sát cuộc Chiến tranh Campuchia-Việt Nam thành công; tiêu diệt chế độ polpot và chấm dứt chế độ diệt chủng Campuchia. Cuối cùng, ông thôi giữ chức vụ tại Bộ Quốc phòng năm 1981; và thôi giữ chức vụ Bộ Chính trị năm 1982. Ông vẫn giữ chức vụ Ủy viên Trung ương và Phó Thủ tướng cho đến khi nghỉ hưu năm 1991.

Ngày 4 tháng 10 năm 2013, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp – người anh cả của QĐNDVN. Đã từ trần; hưởng thọ 102 tuổi; vào lúc 18 giờ 09 giờ; tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội. Nơi ông đã sống từ ngày 24 tháng 9 năm 2009. Ông được tổ chức quốc tang từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 10; và thi hài được đặt tại nhà xác quốc gia ở Hà Nội cho đến khi an táng tại quê nhà Quảng Bình. 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị anh hùng sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Những thành tựu cách mạng của ngài không chỉ giúp VN; mà còn trao thêm niềm tin cho các nước thuộc địa.

Scroll to Top